Something to Remember | ||||
---|---|---|---|---|
![]() | ||||
Album tổng hợp của Madonna | ||||
Phát hành | 3 tháng 11 năm 1995 | |||
Thu âm | 1984–95 | |||
Thể loại | ||||
Thời lượng | 1:11:08 | |||
Hãng đĩa |
| |||
Sản xuất |
| |||
Thứ tự album của Madonna | ||||
| ||||
Đĩa đơn từ Something to Remember | ||||
| ||||
Something to Remember là một album tổng hợp của nghệ sĩ thu âm người Mỹ Madonna, phát hành ngày 3 tháng 11 năm 1995 bởi Maverick Records. Nó được hình thành trong khoảng thời gian gây nhiều tranh cãi nhất trong sự nghiệp của Madonna, khi nhiều nhà phê bình cho rằng sự nghiệp của cô đang bị chững lại. Album là tập hợp những bản ballad xuyên suốt hơn một thập kỷ ca hát của cô, bao gồm bản phối lại của "Love Don't Live Here Anymore" cũng như ba bài hát mới: "You'll See", "One More Chance" và bản hát lại "I Want You" của Marvin Gaye. Ngoài ra, Something to Remember còn bao gồm nhiều đĩa đơn chưa từng xuất hiện trên bất kỳ album cá nhân nào của nữ ca sĩ, như "I'll Remember" và "This Used to Be My Playground", và tất cả những bài hát đã giới thiệu một khía cạnh nhẹ nhàng hơn của Madonna ở giai đoạn nhạy cảm nhất trong sự nghiệp của cô.
Đối với những bài hát mới trong album, Madonna đã làm việc với David Foster và Nellee Hooper, trong đó Foster đã từng gặt hái nhiều thành công qua nhiều tác phẩm của những nghệ sĩ như Barbra Streisand và Olivia Newton-John. Madonna nói rằng cô muốn thực hiện nó để giúp người hâm mộ và giới phê bình ghi nhớ lại những thành tựu âm nhạc của cô hơn là những tranh cãi trên các phương tiện truyền thông. Sau khi phát hành, Something to Remember nhận được những phản ứng tích cực từ các nhà phê bình âm nhạc, trong đó họ đánh giá cao giọng hát của Madonna và sự kết nối xuyên suốt của nó. Album cũng gặt hái nhiều thành công thương mại to lớn, đứng đầu các bảng xếp hạng ở Úc, Áo, Phần Lan, và Ý, và lọt vào top 10 ở hầu hết những thị trường nó xuất hiện. Tại Hoa Kỳ, Something to Remember đạt vị trí thứ sáu trên bảng xếp hạng Billboard 200 và được chứng nhận ba đĩa Bạch kim từ Hiệp hội Công nghiệp ghi âm Mỹ (RIAA), công nhận ba triệu bản album đã được tiêu thụ tại đây. Tính đến nay, nó đã bán được hơn 10 triệu bản trên toàn cầu.
Bốn đĩa đơn thương mại và một đĩa đơn quảng bá được phát hành từ album. Ban đầu được chọn làm đĩa đơn đầu tiên, "I Want You" được phát hành như là một đĩa đơn quảng bá, với một video ca nhạc được đạo diễn bởi Earle Sebastian. Đĩa đơn đầu tiên, "You'll See", đạt vị trí thứ sáu trên bảng xếp hạng Billboard Hot 100, và lọt vào top 5 ở Áo, Canada, Phần Lan, Ý và Vương quốc Anh. Những đĩa đơn tiếp theo như "Oh Father" và "One More Chance" và "Love Don't Live Here Anymore" chỉ gặt hái những thành công khiêm tốn trên nhiều bảng xếp hạng. Với những thành công thương mại mà nó đạt được, Something to Remember đã tạo nên xu hướng phát hành những tuyệt phẩm ballad sau đó, bao gồm Love Songs (1996) bởi Elton John và If We Fall in Love Tonight (1996) bởi Rod Stewart.[1]
Something to Remember – Bản tiêu chuẩn[2][3] | ||||
---|---|---|---|---|
STT | Nhan đề | Sáng tác | Sản xuất | Thời lượng |
1. | "I Want You (với Massive Attack)" | Leon Ware, Arthur Ross | Nellee Hooper | 6:23 |
2. | "I'll Remember (từ phim With Honors)" | Patrick Leonard, Madonna, Richard Page | Madonna, Patrick Leonard | 4:23 |
3. | "Take a Bow" | Kenneth "Babyface" Edmonds, Madonna | Babyface, Madonna | 5:21 |
4. | "You'll See" | Madonna, David Foster | Madonna, David Foster | 4:41 |
5. | "Crazy for You" | John Bettis, Jon Lind | John "Jellybean" Benitez | 4:05 |
6. | "This Used to Be My Playground" | Madonna, Shep Pettibone | Madonna, Shep Pettibone | 5:10 |
7. | "Live to Tell" | Madonna, P. Leonard | Madonna, Patrick Leonard | 5:52 |
8. | "Love Don't Live Here Anymore (phối lại)" | Miles Gregory | Nile Rodgers, David Reitzas | 4:54 |
9. | "Something to Remember" | Madonna, P. Leonard | Madonna, Patrick Leonard | 5:04 |
10. | "Forbidden Love" | K. Edmonds, Madonna | Nellee Hooper, Madonna | 4:09 |
11. | "One More Chance" | Madonna, D. Foster | Madonna, David Foster | 4:28 |
12. | "Rain" | Madonna, S. Pettibone | Madonna, Shep Pettibone | 5:29 |
13. | "Oh Father" | Madonna, P. Leonard | Madonna, Patrick Leonard | 4:59 |
14. | "I Want You" (giao hưởng) (với Massive Attack) |
| Hooper | 6:04 |
Tổng thời lượng: | 1:11:08 |
Something to Remember – Bản tại Mỹ Latinh (Track bổ sung)[4] | ||||
---|---|---|---|---|
STT | Nhan đề | Sáng tác | Sản xuất | Thời lượng |
15. | "Verás" (bản tiếng Latinh của "You'll See") |
|
| 4:21 |
Tổng thời lượng: | 1:15:29 |
Best of Madonna: Ballad Collection – Bản tại Nhật (Track bổ sung)[5] | ||||
---|---|---|---|---|
STT | Nhan đề | Sáng tác | Producer(s) | Thời lượng |
15. | "La Isla Bonita" |
|
| 4:02 |
Tổng thời lượng: | 1:15:10 |
Bảng xếp hạng (1995) | Vị trí |
---|---|
Australian Albums (ARIA)[30] | 19 |
Belgian Albums (Ultratop Flanders)[31] | 62 |
Belgian Albums (Ultratop Wallonia)[32] | 49 |
Canada Top Albums/CDs (RPM)[33] | 91 |
Italian Albums (FIMI)[34] | 13 |
Swedish Albums (Sverigetopplistan)[35] | 16 |
UK Albums (OCC)[36] | 11 |
Bảng xếp hạng (1996) | Vị trí |
Australian Albums (ARIA)[37] | 28 |
Austrian Albums (Ö3 Austria)[38] | 15 |
Canada Top Albums/CDs (RPM)[39] | 28 |
Dutch Albums (MegaCharts)[40] | 55 |
Europe (European Top 100 Albums)[41] | 14 |
German Albums (Offizielle Top 100)[42] | 25 |
Japanese Albums (Oricon)[43] | 99 |
Norwegian Winter Period Albums (VG-lista)[44] | 18 |
Swedish Albums (Sverigetopplistan)[45] | 87 |
Swiss Albums (Schweizer Hitparade)[46] | 22 |
UK Albums (OCC)[36] | 64 |
US Billboard 200[47] | 36 |
Tiền nhiệm: Don't Ask của Tina Arena | Album quán quân tại Úc 26 tháng 11 - 2 tháng 12 năm 1995 | Kế nhiệm: Anthology 1 của The Beatles |
Quốc gia | Chứng nhận | Doanh số |
---|---|---|
Argentina (CAPIF)[48] | Bạch kim | 60.000^ |
Úc (ARIA)[49] | 4× Bạch kim | 280.000^ |
Áo (IFPI Áo)[50] | Bạch kim | 50.000* |
Brasil (Pro-Música Brasil)[51] | Bạch kim | 250.000* |
Canada (Music Canada)[52] | 2× Bạch kim | 200.000^ |
Phần Lan (Musiikkituottajat)[53] | 2× Bạch kim | 93,043[53] |
Pháp (SNEP)[54] | 2× Vàng | 200.000* |
Đức (BVMI)[55] | Bạch kim | 500.000^ |
Nhật Bản (RIAJ)[56] | 2× Bạch kim | 400.000^ |
México (AMPROFON)[57] | Bạch kim | 250.000^ |
Hà Lan (NVPI)[58] | Bạch kim | 100.000^ |
New Zealand (RMNZ)[59] | Vàng | 7.500^ |
Ba Lan (ZPAV)[60] | Vàng | 0* |
Tây Ban Nha (PROMUSICAE)[25] | Vàng | 50.000^ |
Thụy Điển (GLF)[61] | Bạch kim | 100.000^ |
Thụy Sĩ (IFPI)[62] | Bạch kim | 50.000^ |
Anh Quốc (BPI)[63] | 3× Bạch kim | 900.000^ |
Hoa Kỳ (RIAA)[66] | 3× Bạch kim | 2,265,000[64][65] |
Tổng hợp | ||
Châu Âu (IFPI)[67] | 3× Bạch kim | 3.000.000* |
* Chứng nhận dựa theo doanh số tiêu thụ. |
| |
Album phòng thu | |
Album tổng hợp |
|
Nhạc phim | |
Phát hành video |
|
Phát hành trực tiếp |
|
Lưu diễn |
|
Đạo diễn |
|
Tài liệu |
|
Truyền hình |
|
Sách |
|
Tổ chức và nhãn hiệu |
|
Tác phẩm liên quan |
|
Bài viết liên quan |
|
|